Điểm danh 5 trận thủy chiến kinh điển trong lịch sử Việt Nam

Baoanh Nguyen nguồn bình luận 999
A- A A+
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam có rất nhiều vị tướng tài giỏi, cùng với đó là những trận đánh kinh điển khiến kẻ thù nhiều phen kinh hồn bạt vía. Dưới đây là 5 trận thủy chiến mang tầm vóc lịch sử của Việt Nam.
Điểm danh 5 trận thủy chiến kinh điển trong lịch sử Việt Nam
Ảnh minh họa

TRẬN BẠCH ĐẰNG (NĂM 938)

Trận Bạch Đằng năm 938 là một trận đánh giữa quân dân Việt Nam – thời đó gọi là Tĩnh Hải quân và chưa có quốc hiệu chính thức – do Ngô Quyền lãnh đạo với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.

Nguyên nhân dẫn đến trận đánh bắt đầu từ năm năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ (bố vợ của Ngô Quyền) để chiếm quyền, nhưng lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc nên đã cầu cứu nhà Nam Hán để bảo vệ quyền lực của mình.

Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn, rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy. Theo sử sách, khi nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, ông bảo với các tướng rằng: “Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát”.

lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, Ngô Quyền sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp.

Khi cuộc chiến diễn ra, ông đã nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến. Kết quả, quân Nam Hán thảm bại, Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâ‌m lượ‌c.

Sau chiến thắng, Ngô Quyền lên ngôi vua, đánh dấu cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của Việt Nam.

TRẬN RẠCH GẦM – XOÀI MÚT (NĂM 1784)

Tháng 7.1784, mượn cớ giúp Nguyễn Ánh chống Tây Sơn, khoảng 50.000 quân Xiêm với hơn 300 chiến thuyền cùng khoảng 4.000 quân Nguyễn Ánh theo 2 đường thuỷ bộ tiến vào vùng đất Kiên Giang của Việt Nam. Đến cuối năm 1784, liên quân Xiêm – Nguyễn đã chiếm được một số vùng đất phía Tây Gia Định, đóng quân ở căn cứ Trà Tân (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) để chuẩn bị đánh thành Mỹ Tho và Gia Định.

Trước tình hình này, tháng 1.1785, lãnh tụ của nghĩa quân Tây Sơn là Nguyễn Huệ đã đưa 20.000 quân thuỷ bộ từ Quy Nhơn vào Gia Định. Không chủ trương phòng thủ Gia Định đang bị uy hiế‌p, ông đã đưa quân lên Mỹ Tho quyết chiến với quân Xiêm.

Trong những ngày đầu, Nguyễn Huệ dùng lực lượng nhỏ thăm dò, nghi binh, cử người mang của cải cầu hoà với tướng giặc nhằm tạo sự chủ quan, gây chia rẽ nội bộ và dụ quân Xiêm – Nguyễn sớm tiến đánh Mỹ Tho. Đoạn sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (khoảng 6-7 km) được chọn làm nơi quyết chiến.

Rạng sáng ngày 19.1.1785, toàn bộ lực lượng Xiêm – Nguyễn theo đường thuỷ tiến đánh thành Mỹ Tho. Khi kẻ thù lọt vào trận địa phục kích tại Rạch Gầm – Xoài Mút, quân Tây Sơn dùng pháo đặt trên thuyền, trên bờ và cù lao Thới Sơn bắn áp đảo, đồng thời thuỷ binh từ các nhánh sông tiến ra và từ Mỹ Tho kéo lên chặn đầu, khoá đuôi, đánh tạt sườn, bộ binh đón lõng diệt tàn quân chốn chạy trên bờ.

Kết quả là toàn bộ chiến thuyền và phần lớn quân Xiêm – Nguyễn bị tiêu diệt. Quân Xiêm chỉ sống sót khoảng vài ngàn, phải mở đường máu chạy về nước. Nguyễn Ánh cũng vội vã tìm đường chạy sang Xiêm. Với chiến thắng có ý nghĩa chiến lược này, Nguyễn Huệ đã đập tan ý đồ “cõng rắn cắn gà nhà” của Nguyễn Ánh và âm mưu xâ‌m lượ‌c của quân Xiêm.

TRẬN NHẬT LỆ (NĂM 1069)

quan hệ giữa hai quốc gia Đại Việt và Chiêm Thành là một mối quan hệ rất phức tạp trong lịch sử khu vực Đông Nam Á thời Trung đại.

Do điều kiện tự nhiên lãnh thổ quốc gia hẹp lại trải dài dọc theo bờ biển, giao thông Nam Bắc bằng đường bộ không thuận tiện, chủ yếu phải thực hiện bằng đường biển nên người Chiêm rất thạo nghề sông biển và lực lượng hải quân mạnh. Với lực lượng đó, quân Chiêm Thành từng nhiều lần đánh phá Đại Việt.

Tuy vậy, do tiềm lực quân sự yếu hơn nên người Chiêm Thành cũng nhiều lần phải hứng chịu những thất bại thảm khốc trước đế chế Đại Việt hùng mạnh. Trong các thất bại này, có thể kể đến trận thủy chiến Nhật Lệ.

Theo đó, vào năm 1069, vua Lý Thái Tông và danh tướng Lý Thường Kiệt đã đem 5 vạn quân đi chinh phạt Chiêm Thành nhằm ngăn chặn hành động tiếp tay cho nhà Tống quấy phá biên giới phía Nam của Đại Việt.

Lực lượng Đại Việt đã hành quân bằng đường biển và khi đến cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) thì gặp thuỷ quân Chiêm chặn đánh. Tại đây, lực lượng của Chiêm Thành đã bị đánh tan trước sức mạnh của đạo thủy quân Đại Việt.

Sau trận này, Lý Thánh Tông đã cho quân tiến xuống cửa biển Thị Nại (Quy Nhơn) mà không gặp sức kháng cự nào của thuỷ quân Chiêm. Điều này chứng tỏ rằng, thuỷ quân Chiêm đã tan vỡ từ trận Nhật Lệ, hoặc vì quá sợ hãi mà không dám ra giao chiến.

TRẬN THỊ NẠI (NĂM 1800)

Năm 1800, thế trận giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn rơi vào thế giằng co. Vào thời điểm này, thành Quy Nhơn – một địa điểm tối quan trọng về chiến của chúa Nguyễn đang bị quân Tây Sơn uy hiế‌p mạnh mẽ. Quân tiếp viện cho thành không thể đến bằng đường thủy do phía Tây Sơn bố trí một đội thủy quân cực mạnh để bảo vệ cửa biển Thị Nại.

Quyết cứu thành Quy Nhơn, chúa Nguyễn Ánh đưa hạm đội hùng hậu chưa từng có tiến ra phá vòng vây của Tây Sơn ở đầm Thị Nại, với trên dưới 1.000 chiến hạm, trong số đó có 5 chiếc mang được 46 khẩu đại bác.

Quân Tây Sơn không thua kém khi cho án ngữ ở cửa biển Thị Nại 3 chiến hạm khổng lồ Định Quốc – trang bị hơn 60 đại bác. Phía sau là gần 2.000 chiến thuyền lớn nhỏ. Lực lượng Tây Sơn còn được hỗ trợ bởi nhiều đại pháo đặt trên cửa ngõ vào Thị Nại.

Sau nhiều lần bị đập tan ngay tại cửa đầm bởi hỏa lực phòng thủ của đối phương, chúa Nguyễn quyết định thu quân về để họp bàn các tướng bàn kế tiêu diệt hạm đội Tây Sơn. Nhận định mùa gió đang thuận lợi, họ thống nhất sẽ dùng hỏa công.

Đêm rằm tháng Giêng năm Tân Dậu (1801), 1.200 quân Nguyễn bí mật đổ bộ lên bờ, đánh úp các pháo đài của Tây Sơn nhằm hóa giải các cỗ đại pháo. Quân tiên phong của chúa Nguyễn cũng cải trang thành thuyền Tây Sơn vượt qua cửa phòng thủ tiến sâu vào bên trong bắn phá.

Trước sự bối rối của đối phương, toàn bộ hạm đội của nhà Nguyễn tổng tấn công bằng hỏa lực mạnh. 3 chiến hạm Định Quốc của Tây Sơn bị trên 60 chiếc thuyền tiên phong của quân Nguyễn bao vây và đánh chìm. Thủy quân Nguyễn đánh thọc sâu, và thuận hướng gió nên sức mạnh tấn công phát huy tối đa, khiến hạm đội Tây Sơn cháy phần phật trong một biển lửa.

Trận Thị Nại đã kết thúc với chiến thắng toàn diện của chúa Nguyễn. Sau trận đánh này, Nguyễn Ánh liên tiếp giành chiến thắng và nắm quyền kiểm soát toàn bộ đất nước.

Trận thủy chiến Thị Nại có rất nhiều điểm tương đồng với một trận thủy chiến nổi tiếng khác diễn ra trước đó 16 thế kỷ, đó là trận Xích Bích ở cuối thời Đông Hán bên Trung Quốc. Cả hai trận đánh đều diễn ra trong các cuộc nội chiến giành quyền làm chủ đất nước, đều diễn ra trên mặt nước với quy mô rất lớn, quy tụ hầu như toàn bộ lực lượng của thủy quân của các bên tham chiến, và đặc biệt là lực lượng chiến thắng đã dùng lối đánh hỏa công dựa vào hướng gió thuận lợi.

TRẬN BẠCH ĐẰNG (NĂM 1288)

Vào năm 1287, nhà Nguyên mở đầu cuộc xâ‌m lượ‌c Đại Việt lần thứ ba nhưng chỉ chiếm được kinh thành Thăng Long không một bóng người, lại bị mất đoàn thuyền chở lương trong trận Vân Đồn. Trước tình thế bất lợi, quân Nguyên tổ chức rút về nước theo nhiều hướng khác nhau. Đến tháng 3.1288, đạo quân thủy của kẻ xâ‌m lượ‌c do Ô Mã Nhi thống lĩnh rút qua ngả sông Bạch Đằng, nơi đã diễn ra chiến thắng lịch sử bằng trận địa cọc gỗ của Ngô Quyền trước quân Nam Hán năm 938. Lần này, danh tướngTrần Hưng Đạo quyết định áp dụng kế sách của tiền nhân để tiêu diệt quân xâ‌m lượ‌c.

Trần Hưng Đạo nghiên cứu kỹ lưỡng quy luật thủy triều của sông Bạch Đằng để vạch ra thế trận cọc và bố trí mai phục quân Nguyên. Trận đánh mở đầu bằng những đòn nhử của thủy quân Đại Việt. Quân Nguyên tiến hành truy kích và rơi vào bãi cọc lúc nào không hay. Khi nước triều rút, thảm họa đã ập xuống đầu quân xâ‌m lượ‌c.

Những con thuyền lớn của phương Bắc bị dồn ứ, tan vỡ khi va vào những chiếc cọc nhọn hoắt, trong khi quân mai phục của Đại Việt tràn ra từ hai bên bờ với khí thế ngút trời. Kết cục tất yếu đã xảy ra: quân Nguyên thảm bại, mất 4 vạn quân, 400 chiến thuyền và nhiều tướng lĩnh chủ chốt bị bắt sống.

Trận thắng trên sông Bạch Đằng của quân và dân nhà Trần dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của Đại Việt trong cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông lần 3. Kể từ đó về sau, nhà Nguyên không bao giờ còn dám nghĩ đến chuyện xâm chiếm Đại Việt nữa.

Đại thắng trên sông Bạch Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam và là một trong những trận đánh nổi bật nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt.

Nguồn Tin:
Video và Bài nổi bật